Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

NỖI NIỀM - PHAN NGUYỄN CHÂU UYÊN - KỲ 7

CHƯƠNG III
TẬP TRUNG CẢI TẠO

    Lệnh tập trung từ 13 đến 16/6/1975.
    Về lại căn nhà vắng, lòng buồn mênh mông, tội nghiệp con tôi !
    Ngày 11/6/1975, báo “Sài Gòn Giải Phóng” số 31, đăng thông cáo qui định tất cả sĩ quan ngụy, phải trình diện đi “học tập cải tạo”. Bảng hướng dẫn cho sĩ quan đi “tập trung cải tạo”, đăng trên báo, nguyên văn như sau :
“ Mỗi người đến địa điểm học tập cải tạo, phải mang theo:
-          1 tháng ăn bằng tiền, mỗi ngày : 300đ x 30 ngày = 9.000 đ
-          1 ngày 0,7 kg gạo, mỗi ki lô bằng : 220 đ x 21 kí = 4.600 đ
-          Tổng cộng bằng : 13.610 đồng
-          Ngày tập trung đầu tiên, từng người phải mang theo thực phẩm khô để ăn  ngày hôm đó, ngày thứ hai nhà thầu phục vụ cơm nước “
    Chỉ những ai thơ ngây, thì sẽ tin một tháng, hành trang thiên lý chỉ có hai bộ đồ và tấm chăn mỏng. Mình tập trung tại đại học xá Minh Mạng trên đường Trần Hoàng Quân – Quận 5. Nhìn quanh, tìm thân quen, có người ngồi bó gối trầm tư, nhưng cũng có người như ở nhà, vô tư cười đùa.
    Khuya 16/6/1975, mình đang lơ mơ, không biết bây giờ Thái và hai con ra sao ? Bỗng nghe tiếng hô vang :” Dậy, dậy…xếp hàng một, mang cả “tư trang”, ba người một nhóm…” Mình không hiểu “tư trang” là gì.  Nhìn ra ngoài cổng, dưới ánh đèn vàng vọt, những chiếc Molotova nối đuôi nhau, ba mươi người leo lên xe bít bùng, ngồi quay mặt ra sau, hai anh bộ đội còn trẻ măng, cầm súng AK canh chừng.
    Xe khởi hành, không gian chìm trong bóng tối, không biết về đâu ? Gần sáng, xe dừng, nghe tiếng anh bộ đội “ – Ai đi giải xuống xe !” Mình không hiểu “đi giải” là đi đâu, nhưng mấy người lục đục xuống xe đi đái, mình cũng xuống theo. Nhìn cánh đồng lúa xanh mơn mởn, bầu trời trong veo trong sớm bình minh, mà lòng mình ngổn ngang trăm mối. Lên xe, nhiều giọng thì thào :”vào rừng…”
   Hơn mười giờ, xe dừng, nhảy xuống xếp hàng một. Một anh bộ đội, có lẽ chỉ huy “- Các anh nhanh chóng ổn định nơi ăn, chốn ở. Đây là nơi các anh học tập…”
   Những cái lô cốt đìu hiu, ngổn ngang vỏ đạn, quân trang, quân dụng rách nát…cỏ mọc lút đầu, con đường nhựa nham nhở ! Anh bộ đội chỉ huy nhìn quanh, rồi chọn một anh to lớn, chỉ định làm đội trưởng, anh Mừng – đại úy quân cảnh –
 May sao, trong đội có Nguyễn Đắc Vinh cùng khóa hải quân – bây giờ ở Úc – gặp lại Trương Vĩnh Ninh (K23/HQNT). Lần đầu tiên nghe từ “biên chế”, mình ở tổ 4, mỗi tổ 20 người, do anh Ngô Đa (bác sĩ) làm tổ trưởng. Thôi thì đủ ngành nghề, kỹ sư, bác sĩ, nhảy dù, biệt động quân, bộ binh, không quân, hải quân, giáo chức biệt phái, kiến trúc sư…
Trảng Lớn - Tây Ninh
    Sau mấy ngày dọn dẹp, những số phận giống nhau, cũng đần dần thích nghi với môi trường mới. Mỗi người được phát hai bộ treilli và một tấm vải rằn ri để đắp…Đêm mùa hè, nhưng lạnh lẽo trên tấm ri sắt. Mỹ không ngờ những tấm ri làm đường băng dã chiến, bây giờ là giường cá nhân, cho những “chiến hữu” của mình ! Hằng ngày tập tành tăng gia sản xuất, những luống rau muống, tưới nước tiểu xanh um.
   Gần một tháng, kể từ ngày tập trung, tất cả xếp hàng, lên hội trường Trung đoàn. Mình thuộc đội 4 của đoàn 500, do Thiếu tướng Đào Sơn Tây làm tư lệnh. Căn cứ sư đoàn 25 BB là đây – Trảng Lớn, Tây Ninh, gần biên giới Campuchia - Anh chính ủy Tiểu doàn 2 - Năm Luân – hướng dẫn học bài đầu tiên :”Chủ trương của nhà Nước đối với sĩ quan, binh lính chế độ cũ “ Rồi về tổ, tự phê bình, thảo luận, liên hệ tội ác của bản thân…
    Một chuyện khó quên, sau khi xem phim “ Nguyễn Văn Trỗi” và “Ngày Lễ Thánh”, cả đội ngồi sinh hoạt, anh Đội trưởng Mừng yêu cầu ai có ý kiến gì, xin mời phát biểu. Trung úy không quân Dương Hùng Cường – Dê húc càng – hăng hái : “- Tôi đã từng đóng phim, tôi chưa thấy phim nào mà tuyên truyền dở thế ! “ Anh Mừng hoảng hốt, đề nghị dừng. Lão Thuận – Trung úy bộ binh, đội phó – chữa cháy : “- Qua xem hai phim vừa rồi,  chúng ta mới thấy bộ mặt ắc ôn côn đồ…cộng sản !” Lão phát biểu xong, vênh váo nhìn mọi người. Ý của lão là “…ác ôn côn đồ Mỹ Ngụy !” nhưng quen mồm nói luôn một lèo, lão Thuận vội vàng đính chính :-“ Tôi không nói …thế ! “ cả đội cười nghiêng ngã, quên hết ưu tư.
    Sau đó mấy ngày, Dương Hùng Cường cùng một số người khác, chuyển trại, nghe nói ra miền Bắc. Gần cuối năm 1975, mùa Noel lạnh thấu xương, những tiếng đàn guitar tự chế, mang theo nỗi niềm u uẩn mênh mông. Hình bóng quê nhà, cha mẹ già lam lũ, vợ con nheo nhóc, không tin tức gì, lòng mình càng tái tê, buốt giá !
   Từ nơi hoang tàn chiến địa, đã chớm màu xanh cây lá. Những buổi sáng, buổi tối, bên lon guigo “cà phê” cơm cháy và đường Tây Ninh, Trương Vĩnh Ninh tài hoa mài mài, chế tác chiếc lược nhôm, nhặt từ phế liệu chiến tranh.
   Trước tết Bính Thìn (1976), Trung đoàn thông báo: Hòm thư 7590L1T2, nghĩa là trung đoàn 1, tiểu đoàn 2, đẻ thân nhân gửi quà và thăm nuôi. Mình bâng khuâng, không biết gửi cho ai ? Gửi về quê ư ? Cha mẹ và vợ con nheo nhắt, không biết sống ra sao ? đường xa vời vợi, cuối cùng gửi về anh chị Vũ Mỹ Saigon. Ngày thăm nuôi đầu tiên, nhìn quanh ai cũng có người thân, chỉ có mình và những người như mình, ngậm ngùi trong trại, chẳng ai gọi tên…

CÁNH HẠC


Người đã đến 
Không thư từ cánh hạc
Dấu giọt buồn
Và chiều mưa vẫn bay...
Ôi nỗi nhớ là kim đâm giá buốt
Thịt da anh, người yêu hỡi có hay ?
Xa lắm rồi
Kỹ niệm nào chợt đến
Đừng em ơi đừng phí một giây nào
Hãy để giận hờn - xin cho chắp cánh
Và chỉ còn hai đứa bên nhau
Là thời gian chắt chiu
Từ chín trăm ngày xa cách
Là sông Ngân cách mặt
Ôi tháng bảy mưa ngâu
Tìm đâu ô thước bắc cầu
Cho ta qua bến sông sâu tìm người ?
Dù là chỉ một giây thôi
Em ơi sao chỉ là lời đớn đau...
Chiều buồn chiều anh bơ vơ
Chiều thương em nhớ chiều mơ anh về
Dấu xưa tìm cõi hôn mê
Hạc ơi ngơ ngác sơn khê hạc buồn
Xa em nhớ chết nỗi lòng
Mưa giăng khuất nẽo đường trông quê nhà
Nhớ em và con xa xa
Nhớ như vô tận nhớ sa mặt trời
Nên chỉ còn là mưa rơi
Là giọt nước mắt nhớ người hạc ơi !

Phan Nguyễn Châu Uyên
Ga Trảng Táo - Xuân Lộc
1977
 
   Nhớ kỹ niệm cười ra nước mắt, anh T. (Dược sĩ) có mẹ lên thăm, cả tổ giúp anh thay áo quần, mặc quần không đồ lót. Ngày chưa đi cải tạo thì gầy, bây giờ mập ra do…phù thủng, chiếc quần tây bó chặc. Anh ngồi xuống bên mẹ, chiếc quần bung chỉ, trơ cả đít ! Mẹ ôm con khóc không thành tiếng. Mình nhận được gói quà từ chị Mỹ, mấy hủ tương chao và ít thuốc tây, chao ớt ăn cơm, sao mà ngon quá chừng…
    Khoảng tháng 3/1976, tập họp, biên chế. Người thì đoán đi Phú quốc, kẻ lạc quan có lẽ sắp được về, tất cả xếp hàng đi bộ ra cổng Trảng Lớn. Sau gần một năm, mới thấy xóm làng. Anh vệ binh dặn dò: “- Các anh không được tiếp xúc dân chúng, người dân còn căm thù các anh, sẽ nguy hiểm cho các anh !” Ngang qua chợ Long Hoa, xin anh vệ binh cho mua ít đường, người mua thuốc rê, thuốc lào, những tán đường vuông Tây Ninh ngọt lịm, ngon chưa từng có. Điều lạ lùng, dân căm thù sĩ quan ngụy, nhưng không tính tiền, mà còn cho thêm ? Mình chỉ còn 5 đồng (đã đổi tiền), mua hai ký đường, vẫn còn nguyên. Đường thiên lý lầm lũi, trời nắng chan chan, qua núi Bà Đen, vẫn còn đi mãi…
    Đường xe be hun hút, lầy lội. Đến cái “trảng” rộng lớn, chung quanh rừng vây quanh. Anh vệ binh hô lớn :”- Các anh dừng lại, đây là nơi tăng gia, sản xuất !”. Mấy anh bộ binh nói đây là Đồng Ban, gần Campuchia.
    Đêm đầu tiên, túm hai đầu tấm vải đắp, treo lên cây làm võng, muỗi, vắt tìm hơi người được bữa no nê, trên những thân người thiếu máu.
   Mình và Trương Vĩnh Ninh được phân công gánh lá. Nhìn răng cửa của Ninh trống hơ, không nhịn được cười, hai thằng cười lăn, cười bò. Răng bịt vàng, đổi lấy mấy củ khoai lang.
  Tháng 5/1976, chuyển lên Trảng Táo – Long Khánh, lại đốn cây, đốn tre, phát rừng làm rẫy.
   Ăn vội cơm nguội, dành lại từ chiều hôm qua, Hai thằng lên đường với bình đông nước, không có vệ binh đi theo. Cảm giác như chim sổ lồng, đi dọc theo đường tàu, vào rừng tìm tre, càng đi xa tít. Thỉnh thoảng gặp người dân tộc, những cô gái mang gùi, ngực trần, mình và Ninh nhìn không chớp mắt ! Tuổi hai sáu, hai bảy đầy nhựa sống, nhớ vợ nhớ con, gia đình mình sống bằng gì ? hai đứa con nhỏ dại, bên người vợ còn quá trẻ ?
    “Thứ nhất chặt tre, thứ nhì ve gái “. Gần trưa, chặt xong hai cây tre, buông dao ngước nhìn trời, làm sao kéo ra khỏi bụi tre rừng ? Phải phát quang, leo lên chặt hết cành, gai đâm buốt, kéo rách toạc chiếc áo đẩm mồ hôi. Đã xế chiều, đường về xa ngái, vác hai cây tre lên, lom khom đi chưa được 10 mét, đau vai quá, đành bỏ xuống. Vác từng cây một, cách khoảng 100 mét, quay lại, vác cây kia, cứ thế. Đường rừng mịt mù, mau tối, dây leo vương vấn, móc trước, kéo sau, mò mẩm trong đêm. Về đến trại đã hơn 20 giờ, mọi người nghĩ mình và Ninh trốn trại…
    Sau hai tháng miệt mài, “ổn định nơi ăn, chốn ở”, hai mươi người một gian nhà tranh. Buổi chiều hè nắng gắt, đốt cỏ dọn vệ sinh, đề phòng rắn rít, lữa gặp gió trở chiều, suýt nữa cháy nhà. Chỉ tiêu mỗi ngày chặt hai cây, đường kính ba tấc, bằng dao tự rèn hoặc một cây đường kính năm tấc. Xong một cây, mình cùng Ninh ngồi nghỉ, cây không ngã, ngọn vướng dây leo, bỗng nghe răng rắc, đánh sầm trước mặt mình, một nhánh bằng lăng to đùng. Hú hồn, nếu trúng đầu hai đứa…?
Ga Trảng Táo - Long Khánh

   Ngày đốt rừng làm rẫy, anh bộ đội hướng dẫn :”- Đốt ngược gió…” Lữa cháy suốt ngày đêm, sáng cả góc trời. Những lần đi lấy vật liệu, tranh tre, dọc theo đường rầy, ngang ga Trảng Táo, nhìn những chuyến tàu Bắc Nam, mình nhớ nhà da diết. Tình cờ gặp mấy đứa em của Bảo – bạn gần nhà Đà Nẵng - đi kinh tế mới Hàm Tân – Phan Thiết, những gói “quà” thuốc rê, kẹo, bánh, chuối, đường…từ người lữ hành không quen biết, trên những chuyến tàu ngược xuôi.
o O o
    Lại qua cái Tết Đinh Tỵ (1977), gần 900 ngày xa gia đình, mình không hình dung được các con ra sao ? có biết mình là cha không ? Ngày rời xa, Khánh Phương mới hai tuổi, Thục Nghi  hơn sáu tháng ?
    Rừng Long Khánh ngút ngàn, mình cùng Bác sĩ Phạm Đăng Thiện (Định cư ở Pháp, 1987) và Dược sĩ B. hiền như con gái, được phân công làm “anh nuôi”. Bốn giờ sáng, nấu cơm, canh, nước cho anh em mang theo ăn trưa, dọn dẹp, rửa nồi. Chia cơm xong, cạo cơm cháy, mấy anh em lên võng nhấm nháp, ngủ bù, kể nhau nghe chuyện trời mây…Thức dậy vo gạo, nhặt rau, chuẩn bị cơm chiều.
    Khoảng tháng 5/1977, lác đác mấy anh được gọi tên về. Anh Mừng – Đội trưởng – cũng được về đợt này, mình bất ngờ khi được gọi lên gặp lãnh đạo tiểu đoàn, hồi hộp, bước chân đi với bao nhiêu  hy vọng, quê nhà lung linh trước mắt…Nhưng mình được chỉ định thay anh Mừng, làm đội trưởng ! Giao lại bếp cho Thiện.
   Anh em đi làm vất vả, cơm không đủ ăn, suốt ngày lao động, nhưng công việc không xong ! Mình áp dụng giao khoán, mấy anh quản giáo không ý kiến gì, thế là anh em tha hồ về nghỉ sớm, miễn là đạt năng suất. Những trái bắp mập ú, những hạt đậu xanh, đậu đen tròn trịa trên vùng đất mới khai hoang, màu mỡ…
   Nhà Nước chủ trương khuyến khích, cấp đất cho sĩ quan cải tạo được về, lập nghiệp tại chỗ. Cuối tháng 10/1977, có đợt thăm nuôi lần thứ hai, anh em tất bật chặt cây, dựng nhà, chia phòng, chuẩn bị đón người thân. Mỗi gia đình một phòng, ở lại 24 tiếng đồng hồ, sau gần ba năm…
   Khánh Phương đen đúa như nông dân, không cho Ba bồng, khóc thét lên. Thái ngượng ngùng như ngày mới cưới. Dỗ dành được con, ôm con vào lòng, nước mắt rưng rưng. Vợ Nguyễn Hữu Sơn (Thanh Quýt) tình cờ đi cùng chuyến tàu với Thái, cùng xuống ga Mương Mán. Cha nói với Thái “ Đừng mang thịt, cá”, chỉ mang muối đậu, mè để mình mau về sớm. Mình nghe tin sắp được về, không biết khi nào, dặn Thái nán lại Saigon, đợi tin…
    Thời gian qua mau, đưa Thái và con ra ga Trảng Táo, mình nói nhà Nước cho những người cải tạo được về, có thể ở lại đây, xây dựng vùng kinh tế mới, được cấp 1000 m2 và căn nhà lá. Thái mừng rỡ, Thái ơi em quá thơ ngây, được về anh như con chim sổ lồng, bay vút trời mây ! Vội vã bay nhanh, không dám ngoảnh đầu nhìn lại ! Tình phụ tử kỳ diệu, Khánh Phương khóc thét lên, không rời Ba, tàu chạy xa dần, lòng mình tan nát, nói vậy chứ biết ngày nào đoàn tụ, cha mẹ ơi !
Thời gian này, chớm mầm Nguyễn Ngô Khánh Phi.
Nguyễn Ngô Khánh Phi
    Một tuần sau, khi giao ban ở tiểu đoàn, anh Năm Luân cho biết ngày mai mình sẽ được về ! Bất ngờ, luống cuống, mừng vui không thể tả. anh nhắn nhủ :”Anh phải về quê hoặc đi kinh tế mới, chứ không thể ở thành phố…”
    Một đêm thức trắng, nhìn lại bạn bè bồi hồi…Sơn còn ở lại, Ninh và Thiện đã về đợt trước. Sáng mai 7g tập trung ở Tiểu đoàn, nhận giấy ra trại, mười mấy ký gạo và 9 đồng. Mọi người ra ga chờ tàu, đọc đi đọc lại tờ giấy ra trại, mình vẫn chưa tin, bước chân lên tàu còn quay lui, có anh vệ binh nào chạy ra gọi lại không ?
   Hành trang qui cố hương, ôm gọn trong tay. Tàu về đến ga Hòa Hưng, vội vã đón xe lam Hưng Phú, qua khỏi cầu chữ Y, thấy Thái ở xe lam ngược chiều, mình hét to như thằng điên, nhìn bộ áo quần và chiếc “valy” bằng bao cát, có lẽ mọi người biết sĩ quan cải tạo mới về, nên cười xòa thông cảm.
    Hai hôm sau, mua vé về quê, Chỉ còn đủ tiền mua nãi chuối ăn đi đường và cơm cho Khánh Phương. Đến Nha Trang, ai cũng đi ăn, ngoại trừ vợ chồng mình, ngồi lại ăn…chuối. Dì N. đi buôn Đà Nẵng – Saigon, không quen biết, nhưng cho mượn 5 đồng, vậy là được ăn cơm chiều và mua sữa cho con. Sáng sớm, xe đến Vĩnh Điện, chào và cám ơn dì N. hẹn ngày báo đáp, cõng con đi bộ về Hạ Nông.
    Bước vào nhà, không phải là nhà. Căn nhà ngói khang trang ngày xưa, bị bom, chỉ còn trơ nền gạch đỏ. Mẹ hom hem, không như mẹ của ba năm về trước, cha vẫn căn bệnh phổi mãn tính, ho hen quanh năm, ho càng dữ dội hơn khi thiếu thuốc. Mẹ, mới hơn năm mươi, da đã nhăn nheo, mừng mừng, tủi tủi…Thục Nghi khoác ré lên :”…Mẹ, cậu…”, thân thể đầy ghẻ, chốc, đầu cạo trọc lóc. Ôm con trong tay, đầu óc trống rỗng như tương lai vô định của mình. Mẹ bắt uống bát nước lạnh, cho khỏi chống nước, cha ngồi nhìn thằng con rồi nói :”Nghỉ ngơi rồi trình diện chính quyền…”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét