“ Vùng
đất Đà Nẵng thời hoang sơ vốn là đất của nước Chiêm, phương Nam, đến đời vua
Trần Anh Tông, vua Chiêm là Chế Mân đã cắt phần đất này và sáp nhập vào Châu
Hóa của nước Đại Việt kể từ tháng 6/1306 đến tháng 10/1307 để cưới công chúa
Trần Huyền Trân. Từ tháng 11/1307 đến tháng 7/1402, sau vài biến động lịch sử,
vùng đất này lại thuộc Chiêm quốc.
Sau khi nhà nước Đại Ngu được thành lập,
vua Hồ Quý Ly đã tiến hành phân bổ lại đất đai và vùng đất này thuộc Châu Thăng từ tháng 8/1402 đến tháng 7/1406.
Từ tháng 8/1407 đến đầu năm 1471, hơn 63
năm, do bối cảnh lịch sử, vùng đất này được trả về cho Chiêm quốc, mà lịch sử
nước ta gọi là đất “Kimi”, mãi đến
tháng 6/1471 niên hiệu Hồng Đức, đời Lê Thánh Tông, sau đại thắng quân Chiêm,
nhà vua đã lấy đất từ Nam Hải Vân đến Thạch Bì Sơn lập ra đạo thừa tuyên Quảng
Nam (chỉ vùng đất rộng lớn ở phương Nam).
Vùng đất Đà Nẵng từ đây mới thực sự thuộc đất nước Đại Việt.
Cuối thế kỷ 12, dưới triều nhà Nguyễn, Đà
Nẵng cũng như bao thị trấn bình thường khác trên đất An Nam. Lúc này công cuộc
thăm dò thuộc địa của các đế quốc Phương Tây đang bắt đầu. Tại Việt Nam mở đầu
là sự xuất hiện các nhà truyền giáo và các nhà buôn : Bồ Đào Nha, Anh, Ấn, Hà
Lan, Pháp, Nhật, Hoa…
Mở đầu
từ kinh thành Huế, các nhà truyền đạo tỏa đi và một số đã đi về phương
Nam, vượt qua Hải Vân quan để đến Đà Nẵng. Đà Nẵng bước đầu đã được Pháp biết
đến qua các ghi chép của các nhà truyền đạo. Pháp nhìn thấy Đà Nẵng có nhiều
tiềm năng, nên vào năm 1841, một tàu chiến Pháp bỏ neo ở Vịnh Đà Nẵng thăm dò
rồi đi. Đến năm 1847, hai tàu chiến Pháp bắt đầu gây hấn, bắn phá một số đồn
bót dọc sườn núi Sơn Trà. Đến năm 1858, liên quân Pháp – Y Pha Nho lấy cớ triều
đình Huế bắt các nhà truyền đạo của họ nên tấn công Đà Nẵng, nhưng bị dân quân
Đà Nẵng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn tri Phương phản kích dữ dội. Suốt 1 năm 6
tháng 20 ngày không chiếm được Đà Nẵng, thiệt hại càng lớn, nên quân xâm lược
đành rút lui và chuyển hướng tấn công vào Nam bộ.
Cảng Tiên Sa
Trên đường vào cảng Tiên Sa, thuộc phường
Thọ Quang, quận Sơn Trà, Đà Nẵng ngày nay, có một nghĩa địa chôn cất lính Pháp
và Tây Ban Nha (hay Y Pha Nho) tử nạn
trong trận đánh vào Đà Nẵng năm xưa, hiện chỉ còn căn nhà nhỏ, mặt tiền có
chiếc Thánh giá với một từ tiếng Pháp chạm nổi Ossuaire (đồi hài cốt). Đây là ngôi mộ chung của 32 binh lính chết
trận từ năm 1858 – 1860.
Sau nhiều biến động lịch sử, hiệp ước
Patenotre ký ngày 06/6/1884. Đà Nẵng chính thức trở thành nhượng địa của Pháp.
Pháp tách Đà Nẵng khỏi Quảng Nam và đổi tên thành Tourane, chịu sự cai quản
trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương. Tourane được người Pháp đầu tư xây dựng
trở thành một đô thị lớn theo kiểu Tây phương, các ngành nghề sản xuất và kinh
doanh được hình thành và phát triển : nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế
biến hàng xuất khẩu (chè, lương thực, thực phẩm, nước ngọt, nước đá, rượu, nước
mắm, cá khô, sửa chữa tàu thuyền, kinh
Doanh
dịch vụ…) cùng với Hải Phòng và Saigon. Tourane trở thành trung tâm thương mại
quan trọng của cả nước.
Đèo Hải Vân là một mạch núi trong dãy Trường
Sơn, là ranh giới giữa Thừa Thiên – Huế ở phía Bắc và thành phố Đà Nẵng ở phía
Nam. Đỉnh cao nhất cách 500m so với mực nước biển. Đèo Hải Vân từng được mệnh
danh là “ Thiên hạ đệ nhất hùng quan”.
Trên đèo có ải tên Hải Vân Quan từ thời Minh Mạng”.
Mình dỗ Tú tài
1, Cha mẹ rất vui và tự hào, hai cha con đi bộ xuống ngã Năm, qua đường Hoàng
Diệu. Cha mua ngay chiế Velo-Solex mới tinh ! Ôi sung sướng quá, hầu hết học
sinh đi xe đạp hay đi bộ, mà mình đi xe máy !
Mình
thầm cám ơn cha – nhưng rõ mình là thằng con bất hiếu. Một lần chở cha tìm mối
bán hương ở chợ Hàn, trời mùa đông rét mướt, gió từ sông Hàn thổi lạnh buốt, cha
mặc chiếc áo măng-tô cũ, vừa đi vừa ho, tìm không được mối nào…trong khi mình e
ngại nhìn quanh, lo lỡ có bạn nào bắt gặp ! Từ đó, đi đâu cha không cho mình
chở đi nữa. Tuổi mười lăm, mười bảy chỉ nghĩ về mình, cơm áo, gao, tiền ỷ lại
song thân. Đôi lúc xin tiền rong chơi, cha mẹ cho ít, mặt còn phụng phịu ! “ Đến khi có con và con đã trưởng thành, vẫn
chưa hiểu hết tấm lòng cha mẹ ” Ôi, công ơn cha mẹ cũng thấm dần và thấu
hiểu theo thời gian, tuổi hai mươi, ba mươi, bốn mươi…mỗi ngày mỗi khác, sâu
đậm ân tình, nặng trỉu lòng, theo suốt đời bôn ba danh lợi, mưu sinh.
Cha mẹ ơi ! Đến khi con hiểu, cha mẹ không
còn nữa. Chưa đến tuổi ba mươi, quanh quẩn bên mẹ, nặng tình với mẹ hơn cha.
Tuổi bốn, năm mươi nặng tình cha hơn mẹ, sự nghiệp một đời theo gương, bương
chải theo cha – “ Đi khắp thế gian không
ai tốt bằng mẹ, gian khó cuộc đời không ai khổ bằng cha “. Khi tuổi đã qua
bên kia dốc cuộc đời, ngẩm nghĩ sao mà đúng quá !
“
Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, chỉ có sức khỏe là
của mình.
Cha
mẹ yêu con là vô hạn, con yêu cha mẹ là có hạn.
Con
ốm cha mẹ buồn lo, cha mẹ ốm con nhòm một chút, hỏi vài câu là thấy đủ rồi.
Con
tiêu tiền cha mẹ thoải mái, cha mẹ tiêu tiền con không dễ.
Nhà
cha mẹ là nhà con, nhà con không phải là nhà cha mẹ “
Khi hiểu đời, ta coi coi việc lo liệu cho
con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp, không chờ báo đáp !
Năm 1968, Tết Mậu Thân, súng nổ khắp thành
phố, thây người chết cong queo…
oOo
Năm Đệ nhất (1968 – 1969) mình học hành giỏi giang hơn.
Nhớ cùng Chương “gồ”, Vĩ Văn Thông, đánh máy, quay ronéo cho đặc san “Hành trình” . Kỹ niệm năm cuối ở trường
trung học Sao Mai, đã cho mình biết bao buồn vui. Những ngày học thi, đối diện nhà có Ngô Út –
Phan Chu Trinh, sau này là anh vợ mình, Viện trưởng Viện Qui hoạch Lâm nghiệp –
cũng ôn thi Tú Tài 1, hai thằng thi nhau chong đèn. Mình đã thầm yêu Thái – em Út
- nhưng em còn nhỏ, mình đã xin cho Thái và em Bình vào trường Sao Mai, những
lần ra hiệu, ôm nhau vội vã…Xóm mình có bốn đứa, chỉ mình
đậu Tú tài 2, cha mẹ mừng và càng lo hơn…
Tháng 9/1969, cha dắt mình ra Huế, mang
theo thư giới thiệu của Cha Huỳnh, gởi cha quản lý cư xá Xavier, nhưng không
còn chỗ trống. Cha gửi trọ nhà anh Ba Hóa trên đường Chi Lăng, gần chùa Tàu.
Nhà anh Ba Hóa có Thu, học lóp 9, Cơ bạn Thu nhờ mình dạy kèm…Nhưng chưa đầy
hai tháng, cha gọi về cho đi Saigon, sợ ở Huế “ Học trò trong Quảng ra thi, thấy cô gái Huế chân đi không đành !”.
Khi vào Saigon, mình nhận mấy lá thư của Cơ, nhưng không hồi âm, nghe nói sau
năm 1975, cô công tác ở Sở Giáo dục TP.Huế.
Huế - 1969
Thi mấy trường không đỗ, cha mong con mình
vào y khoa. Mình ghi danh học SPCN – Đại học Khoa học - mong năm tới thi lại y
khoa, trường y khoa đã bỏ chứng chỉ dự bị. Ở trọ nhà ông bà Thơm, có em Nga, em
Mỹ - trước cùng xóm ở Phan Chu Trinh, Đà Nẵng – gần cầu Phan Thanh Giản (cầu
Điện Biên Phủ) - đi học về phụ với bà Thơm bán tạp hóa, đi mua hàng ở chợ Cầu
Ông Lãnh, tối dạy các em. Cha gởi tiền mua xe “Motobicane” gần ba lượng vàng để đi học.
Nga rất dễ thương hay nhỏng nhẽo, nhưng
không chăm học, mới Đệ lục (lớp 7) đã biết làm dáng. Đôi khi chở em đi học, em
lại đòi trốn học, chở đi chơi, mình cũng muốn mà không dám. Đêm ngồi học bài,
mình và em chẳng học được gì, em cứ nghiêng đầu trên sách nhìn mình ! Có lẽ
mình “cù lần” chăng ? Không, vì trong lòng mình hình ảnh Thái thơ ngây ngự trị mất rồi.
Gần Tết, cảm thấy bất tiện, mình xin xuống ở nhà cô
Phụng. Cô dượng thuê căn nhà mười mấy mét vuông (195/27c Nguyễn Thông nối dài – gần ga xe lữa Hòa Hưng). Cô dượng đi
phụ hồ lam lũ, sáng tinh mơ ra đi, tối mịt mới về. Em Phụng – cùng tuổi, đã có
chồng, hai con bé xíu – Cháu Trinh mới sinh, cháu Tuấn đầu lòng, mới hơn một
tuổi, chồng trốn quân dịch, phải ở lại trên chỗ làm. Em Hoàng học lớp ba, đi
học về phải bồng, giữ cháu Tuấn, xệ cả bên hông. Buổi trưa chiên cơm với trứng,
buổi chiều Hoàng đi học, mình lại ru em…
Mình đã tìm được hai chỗ dạy kèm, đêm thì
quận ba, đêm thì Hạnh Thông Tây, Gò Vấp…đở cho cha mẹ phần nào.
Những ngày đầu năm 1970, tình hình đấu
tranh của sinh viên Saigon sôi động. Chưa kịp thi, các trường Đại học bãi khóa,
khoảng tháng 5/70 mình về Đà Nẵng. Chiếc xe cha mua cho, bán lại cho người
khác, để làm lộ phí về quê, xuống chợ Bến Thành mua về tặng cha chiếc mũ nỉ,
tặng mẹ chiếc khăn quàng cổ, cha chửi mình là đồ phá của.
Lang thang trên đường phố buồn hiu cùng
Nguyễn Văn Hồi (sau vào khóa 23/HQ Nha Trang) bị cảnh sát bắt vào giam ở Quân
trấn Đà Nẵng, sinh viên Saigon về đây chỉ “sách động biểu tình” !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét