Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

NỖI NIỀM - PHAN NGUYỄN CHÂU UYÊN - KỲ 2

    Lễ Phật đản 1963, chùa Hạ Nông không một bóng cờ, Bác Xứng tụng kinh cầu an, cầu siêu – Ngôi chùa đã được trùng tu do cha cúng dường tam bảo – Ngày khánh thành (1962), mình cùng anh Ngộ, thằng Dần theo đoàn Phật tử chạy tung tăng. Mẹ nấu cơm chay, thiện nam tín nữ thọ trai ai cũng khen, nồi chay có khoai lang, mít chín cả xơ lẫn múi, đậu xanh, đậu phụng tươi giả nát, rau sống thơm nồng…
    Anh Tâm (Thuỳ) mặc áo quần phật tử, mình xin mẹ may áo lam, quần cộc xanh theo đoàn Phật tử. Nhưng cha không cho, cha bảo :“ Dù xây chín bậc phù đồ, sao bằng làm phúc cứu cho một người “ – “ Phật tức tâm, tâm tức Phật”
    Mình theo Bác Xứng lên chùa tụng kinh Vu Lan báo hiếu, cha bảo : “ Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ ấy là đi tu “

    Ngày 11.6.1963 Thượng Toạ Thích Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư Lê Văn Duyệt (CMT8)
   Ngày 20.8.1963 Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp Phật gíáo, các thầy ở chùa Tỉnh hội Hội An bị bắt…học sinh nghĩ học, thị trấn Vĩnh Điện đìu hiu ! Bác Xứng nói ai theo Phật giáo là bị bắt bỏ bao bố thả sông, cầu Kỳ Lam biết bao nhiêu người chết, còn hơn đập Vĩnh Trinh năm nào…
     “…Nhiều vụ giết người tập thể trên sông Vu Gia, sông Thu Bồn, ở đập Vĩnh Trinh, đập Thạch Bàn (Duy Xuyên), động Hà Sông (Đại Lộc). Hàng trăm người bị chôn sống trong những hố đào ở trường học Phước Đức (Quế Sơn), 21 người bị chôn sống ở Phước Viên (Thăng Bình), 31 người bị chôn sống ở bến Lò Vôi, Xuyên Trà (Duy Xuyên), hàng chục người bị chôn sống tại Cồn Ba Cây (Điện Nam), bãi sông Tư Phú (Điện Hồng), hơn 150 người bị chôn sống ở Giếng Lạng (Tam Kỳ)…”
     Cha nghe radio la lên : “ Đảo chính rồi ! anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bị giết – Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn…đảo chính thành công rồi”
     Đồng bào Phật giáo hò reo, thị trấn Vĩnh Điện tưng bừng như mở hội, ai cũng hân hoan như mình vừa thoát chét – Đó là ngày 01.11.1963

     Năm 1963 – 1964, cái mốc lịch sữ khó quên ở thế hệ mình, chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm đã cáo chung. Phong trào “Ba sẳn sàng” như vết dầu loang khắp làng quê, huyện lỵ Điện Bàn, từ Vĩnh Điện về Bình Long, Phong Thử. Đường Quốc lộ đã bị đào nham nhở, một số thằng không đi học nữa, xung phong vào du kích làm cảnh giới cho Giải Phóng quân. Anh Đông con bà Tiếp còn khoe với mình quả lựu đạn, thằng Cật con bà Nhì, thằng Diên con ông Hương Hoá, cái xóm Nga Tiền chỉ gần mười nóc nhà, mấy thằng ngang lứa mình đã ra đi. Thằng Diên đeo lựu đạn bằng nịt dây chuối quanh lưng quần, cảnh giới ở cầu Bình Long, mấy ngày sau nghe tin nó banh ruột, vì chơi với quả M.79 vàng choé quay chưa đủ vòng.
Liệt Sĩ Nguyễn Văn Dần
     Thằng Dần rủ mình về quê ăn khoai lang nướng mẹ nó mới đào, mấy đứa đạp xe qua khỏi tháp Bằng An, gần đến ngõ Nghè Mai, Chánh Chước đã nghe rộ tiếng súng, mấy người gánh lá dâu băng qua đường chạy về hướng thôn Nông Sơn…thằng Dần nói đó là quân Giải Phóng.
     Những ngày mùa đông buồn da diết, thằng Thân Tám (Thân Hùng – đã mất 2009) rủ mình qua bến xe Vĩng Điện coi xác Việt Cộng mới bị bắn chết, bỗng nó khóc oà nói là chú nó ! Không khí chiến tranh tràn vào lớp học, thằng Dần theo anh Đông đi du kích, lớp học thưa dần…

Cây Tháp Bằng An
     Thầy Phan Chánh Dinh (Nhà thơ Phan Duy Nhân) dạy bài cuối cùng, bài thơ của Yên Thao : “Nhà tôi”

NHÀ TÔI

Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng giặc đóng
Làng tôi đấy, sạm đen màu tiết đọng
Tre, cau buồn rũ ướt mưa sương
Màu tráng vôi lôm lốp mấy khung tường
Nếp đình xưa người hỡi, đau gì không ?

Tôi là anh lính chiến
Rời quê hương từ dạo máu khơi dòng
Buông tay gầu vui lại thuở Bình Mông
ghì nấc súng nhớ ơi, ngày đắc thắng
Chân chưa vẹt trên nẽo đường vạn dặm
Áo nào phai không sót chút màu xưa
Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa

Tôi có người vợ trẻ
Đẹp như thơ
Tuổi chớm đôi mươi cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
Ai ra đi mà không từng bịn rịn
Rời yêu thương nào đã mấy ai vui
Em lặng nhìn với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ

Tôi còn người mẹ
Tóc ngã màu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng gầy uốn nặng kiếp long đong
Nắng mưa từ thuở tang chồng
Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon
Ôi xa rồi, mẹ tôi
Lệ nhoà mi mắt
Mong con phương trời
Có từng chợt tỉnh đêm vơi
Nghe giòn tiếng súng nhớ lời chia ly
-          Mẹ ơi, con mẹ tìm đi
Bao giờ hết giặc con về mẹ vui

Đêm hôm nay, tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa
Chiếc quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi kia, bên trại thù quạnh quẽ
Trông im lìm như một nấm mồ ma
Có còn không em hỡi, mẹ tôi già
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa ?

Tôi là anh lính chiến
Theo quân về giải phóng quê hương
Mái đầu xanh bụi viễn phương
Bước chân đất đạp xiêu đồn luỹ địch

-          Này, anh đồng chí
Người bạn pháo binh
Đã đến giờ chưa nhỉ ?
Mà tôi nghe như trại giặc tan tành ?
Anh rót cho khéo nhé
Kẻo lại nhầm nhà tôi !
Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
Có giàn thiên lý, có người tôi thương
(1949)
     Quê mình chìm trong khói lữa, máy bay ném bom tan tành ba cây đa cổ thụ, cô dượng Ngũ ra đồng, cà nông rơi trúng hầm, xác năm đứa con không đứa nào còn nguyên vẹn.
    Mới sáng sớm, quân Giải phóng về tử hình thôn trưởng Nông Sơn, lại bắn thêm thằng em từ ngoài đồng chạy về vì nghe tiếng súng…Chùa Hạ Nông vắng dần thiện nam tín nữ, Bác Xứng vẫn chiều chiều dộng chuông thinh không, vang vọng cõi trần ai, nhà ông Đốc Thiên – cháu cụ Trần Quý Cáp – cũng quạnh quẽ vắng ngắt. 
  Cả gia đình mình tản cư ra Đà Nẵng, Cha lấy lại căn nhà cho thuê ở đường Phan Chu Trinh, gần ông bà Ngoại. Mình được gửi trọ ở nhà ông Nữa - bảo vệ trường Nguyễn Duy Hiệu – Cuối tuần mới về. Thầy Phan Chánh Dinh, cô Dương Thị Ngân Hà, thầy Trần Văn Tường cậu Lê Văn Đa cũng ăn cơm trưa ở nhà ông Nữa cùng trò.
  
Cô Ngân Hà và Thầy Trần Văn Tường
     Những buổi chiều tan học, sân trường vắng hoe, thỉnh thoảng cô bạn học Phan Thị Tuyết Hoa xinh xinh ở trọ bên kia đường, mang áo quần xuống giặt ở bến sông, trước nhà mình trọ, lòng mình buâng khuâng, mong đợi không nói nên lời…
    Một lần trong giờ toán của thầy Tường, không biết thằng nào viết lên bảng :”Bạch Tuyết + Cúc B kết hợp” Thầy Tường gọi mình lên tát cho một tai, tá hoả tam tinh ! Mãi gần 50 năm sau, Phạm Văn Đức mới nhận là thủ phạm, trong lần hội ngộ sau gần năm mươi năm ở nhà mình trước mặt thầy Tường !
    Năm đệ lục (1963-1964) mình cùng thằng Diên, thằng Chung, thằng Ký thức trắng đêm làm bích báo. Lớp do thầy Võ Toàn Trung làm giáo sư hướng dẫn. Nghe nói thầy Trung sau này là Biên tập viên Cảnh sát ở Hội An.
     Từ thị trấn Vĩnh Điện về quê gần ba cây số, nhưng xa xăm vời vợi, dòng sông Vĩnh Điện thỉnh thoảng mang những xác người bị trói ké sau lưng, trôi xuôi theo dòng nước đục ngầu.
    
Cuối năm dệ Ngũ (Lớp 8, 1964-1965) đang hăng say học tập vì lần đầu tiên mình xếp hạng cao trong lớp, nhưng lớp chỉ còn hai mấy đứa, phải nhập chung hai lớp Pháp và Anh. Cha lại chuyển trường ra học ở Đà Nẵng, hụt hẫng với môi trường mới, bạn bè mới : Trường Sao Mai.
    Ngôi trừong Sao Mai đã cho mình biết bao kỹ niệm êm đềm. Một anh học trò nhà quê ra phố ngớ ngẫn, tự ti, mặc dù là ngôi sao tỉnh lẽ ! Sự hoà nhập thật khốn khổ, cuối năm cấp hai chẳng để lại ấn tượng gì, ngoại trừ những lần ê mặt vì không cân bằng được phản ứng hoá học, không giải được phương trình bậc 2 ! Chỉ còn nhớ : “ Tình Delta âm vô nghiệm muôn đời…”
     Đêm Noel cùng bạn bè mới tung tăng, nhẩm tụng kinh Phật thay vì kinh Thánh, Sao Mai là trường Công giáo, đứa nào cũng có tên Thánh, tụi nó đặt tên thánh cho mình là…”Luxiphe”, mình hãnh diện với tên Thánh ấy, mặc dù không biết ông Thánh ấy là ai !

 Cha gầy dựng sự nghiệp, mở xưởng mộc cỏn con, quy tụ con cháu chạy loạn từ quê ra…anh Bồng, anh Ghè, anh Ngộ sốt rét vàng da, bủng beo học bào, học cưa. Cha mẹ bao bọc cả nhà chú Dần, cô Ngũ…chạy đi thuê nhà cho gia đình bác Xứng. Anh Hiệp học may, em Bình đi ở đợ cho dì Chín.
     Một lần đi học về, gặp lại cô bé ngày xưa Phan Thị Tuyết Hoa, Hoa học trường Bồ Đề, đưa nhau về ngang nhà mình rồi thôi, còn Hoa về bên khu định cư An Hải, bên kia sông Hàn, qua cầu Trịnh Minh Thế (cầu Trần Thị Lý)
Cầu Trịnh Minh Thế - 1966
     Những ngày nghỉ học lang thang, đạp xe qua nhà Tuyết Hoa, đi trên đường cát hun hút với tiếng vi vu của phi lao, đến tận bãi tắm Mỹ Khê. Ngồi bên nhau im lặng, rồi về !
     Anh Bồng, anh Ghè bị bắt lính, cha bó tay vì không có thợ, lại cùng bác Hương Ngân làm hương (nhang), cha đi bộ xuống chợ Hàn mua hương liệu, tăm nhang, bảo thằng con chở về, mình xấu hổ sợ gặp bạn bè…Mẹ đi làm sở Mỹ, chiều nào về cũng có quà, hôm thì socolate, kẹo, đồ hộp. Em Ngọc đi học nửa chừng, chưa hết Đệ Lục (lớp 7) thì nghỉ, cha cho đi học may, em Lũy vào lớp 2…Cậu Bốn (Đa) và chú Thành đi thầu giặt đồ Mỹ, tối về cả đám thi nhau lục túi quần, túi áo, tìm được tiền đô, có khi đồng hồ, bút máy. Cả nhà thi nhau se nhang, dán bao, vào bao đi bỏ mối, hàng xóm cũng làm gia công…

   Niên khóa 1965 – 1966  mình học đệ Tứ, nhờ cô Bạch thu ngân ở trường Sao Mai giới thiệu, mình đi dạy kèm, bây giờ gọi là gia sư. Mình đã bắt đầu có bạn đến nhà chơi, thằng Vĩ Văn Thông, Tôn thất Hoàng Tú, Trần Đình Định, Lê Quang Chính con thầy Lê Cần. Sau này thằng Thông thi hỏng tú tài 2 vào không quân làm pilot trực thắng, thằng Tú học y khoa Huế làm bác sĩ, thằng Định làm luật sư ở Mỹ, thằng Chính là giáo sư dạy ở Singapore.
    Năm 1966 – Phật Giáo đem bàn thờ xuống đường…
    Tất cả các trường ở Đà Nẵng bãi khóa, các Thầy ở chùa cùng bàn thờ Phật Tổ tràn ngập các con đường Ông Ích Khiêm, Phan Chu Trinh, Hoàng Diệu…Lực lượng TQLC từ Saigon bay ra trấn áp, thành phố Đà Nẵng như chiến trường.
œ 
    Một tuần mấy lần, Trần Đình Định đạp xe lên rủ mình đi tắm biển Mỹ Khê. Cha Định là ông Trần Quốc Thái, con nuôi ông Ngô Đình Cẩn làm quận trưởng Điện Bàn. Sau ngày lật đổ Ngô Đình Diệm 01.01.1963 bị ở tù, nhà cửa bị tịch thu, Định là thằng bạn thân nhất với mình. Thầy Vĩnh Linh, Thầy Thanh dạy toán, Thầy Trần Đại Tăng (nhà thơ Trần Hoan Trinh) dạy đại số, Thầy Hương dạy lý hóa, Thầy Lê dạy sử địa, Thầy Đòan Đức Triệu dạy văn, Cô Điểu dạy vạn vật, Thầy Hoàng Ngân Hà dạy anh văn, Cha LM Vũ như Huỳnh dạy pháp văn…Thầy Vĩnh Linh sau năm 1975 làm đại biểu Quốc hội.
     Ngày đám giổ ông Ngoại, mình lén lấy xe mobilette của chồng dì ba Cẩm dắt ra đường leo lên đạp nổ máy, chạy một mạch đến ngã tư Phan Chu Trinh – Lê Đình Dương, chạy nhanh quá nên khi rẽ sang đường bị ngã chổng vó lên trời, trầy xướt chân tay, xe bị quẹo cổ, mình cố dắt về nhà, may mà các cụ đang nhậu chẳng ai hay !
          Anh em trong nhà hơn kém nhau vài tuổi như Lực (con dì Năm – mất năm 2011), Thạnh (con dì Bảy), Vân (con cậu Bốn Đa – mất năm 1972) Ai cũng thương Vân vì nó là cháu nội, mình ra đời sớm nhất trong các cháu nên được ưu ái của các dì, các cậu, chưa vợ chưa chồng. Đi học về mà không ngủ trưa, chân không mang guốc là chết với dì Chín, cậu Nghĩa ! Cậu Nghĩa mua sách về bắt đọc, rồi kể lại cho cậu nghe. Ngày dì Chín về nhà chồng, dì dắt theo mình với thằng Vân, bắt ngủ bên dì trong đêm tân hôn, hai thằng ngủ say như chết, sáng ra dì dắt hai thằng về sớm, không biết chuyện gì đã xãy ra ! 
Lê Văn Vân - Huỳnh Tấn Lực
    Cậu Ngãi có bồ, đi dạy về tập trung bạn bè đánh bài cả ngày chủ nhật, mình thích nhất là cậu sai đi mua bánh mì thịt nguội Tiến Thành, trên đường Trưng Nữ Vương, gần chợ Mới, ôi những miếng ba-tê béo ngậy, jam-bon, chả lụa thơm lừng, bao giờ mình cũng có phần. Mình với em Lực ra đứng ngoài đầu ngõ, khi nào thấy bồ cậu đi xích-lô đến, chạy vào cấp báo. Một lần hai đứa ham đi bắn chim, bầy chim sẽ nhảy nhót trên cây kiền kiền, quên mất phận sự, bồ cậu vào nhà…hai thằng bị trận đòn tơi tả !
    Khoảng năm 1966 – Cậu Ngãi cưới vợ - Mợ Xuân, con nhà danh giá nhất Đà Nẵng, học trường Tây, cậu làm Précepteur (gia sư) rồi “cua” được mợ.
Mình với khay trầu rượu - đám cưới cậu Ngãi
    Thời cuộc đảo điên, nghề làm hương, không phải là nghề của cha. Con cái vô tư, chỉ biết ăn và học, mẹ sớm đi tối về…Anh Tâm được cha mẹ nuôi ăn học từ lớp Đệ Thất, chú Mười Thi lang bạt kỳ hồ, ông bà Nội mất khi chú còn bé, cha mẹ nuôi khôn lớn, cho đi học thợ may, rồi cưới vợ. Có lẽ chú không yêu, sau ngày thành hôn chú bỏ nhà lên Đà Lạt, thím Mười Thôi cũng vào Saigon đi làm thuê, chỉ có mẹ gánh hậu quả, không sinh mà có dưỡng, nuôi em Thu từ ngày đỏ hỏn đến năm, sáu tuổi, thím về xin dẫn đi…
     Niên khóa 1966 – 1967, vào Đệ Tam – năm đầu đệ nhị cấp – thêm nhiều bạn bè mới, lớp đã phân ban, một số học sinh giỏi được chuyển vào trường công lập Phan Chu Trinh. Thêm môn tiếng Pháp, do Cha Vũ Như Huỳnh phụ trách. Cha là Hiệu trưởng nên đứa nào cũng kính sợ. Mình là học sinh chăm chỉ có hạng của lớp, Cha Huỳnh cầm cây bút chì hỏi mình “ – Qu’est ce que c’est ?” Mình lúng túng, nghe văng vẵng…xích lô, vội trả lời :”- C’est…tông xích lô (un stylo) ! Cha nghĩ mình nghịch ngợm, thật ra mình chẳng biết gì !
    Cha cho đi học thêm Anh văn ở Hội Việt Mỹ, mỗi tuần ba buổi, Huỳnh Ngọc Lộc chở mình (Lộc, sau này gặp nhau ở Qui Nhơn - Trung sĩ Hải Quân), học thêm toán thầy Trần Đại Tăng (nhà thơ Trần Hoan Trinh). Lê Quang Chính (con Thầy Cần – dạy Anh văn) cùng lớp, nó bảo giọng mình đọc tiếng Anh như tiếng…Pháp. Cha mua cho chiếc xe đạp mới, bị xe jeep của Mỹ cán quẹo cả vành, mình bắt nó đền, mình đem hết khả năng tiếng Anh sẳn có, kèm theo tay chân, vậy mà mình nhận được câu :” I don’t understand !”
    Vào đầu năm học, Đà Nẵng rúng động vì chuyện thầy Vinh Anh – Hiệu trưởng Phan chu Trinh, đi coi thi bị thí sinh đâm chết ở Nha Trang. Hầu hết học sinh các trường đi đưa tang Thầy.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét